Tạ ơn miền trà sơn cước
2025-09-12 18:33:00.0
Giám đốc HTX Nông sản Phú Lương Tống Văn Viện khu sản xuất đóng gói chè Hương Quê
Ngày xuống núi theo học Trường Thống kê ở xứ Kinh Bắc, Tống Văn Viện (sinh năm 1987) được cha mẹ cẩn thận chuẩn bị hành trang với lỉnh kỉnh gạo, thịt… Chàng trai trẻ 18 tuổi vẫn bẽn lẽn quay lại xin thêm đĩa xôi gạo nếp vải và gói chè sương mai mới cúng thần núi, cho vào tay nải dời quê. Tuổi còn trẻ mà đã thẩm được hương vị trời ban từ sản vật quê hương khiến cho Viện như đại sứ được chọn lựa để gắn cả cuộc đời mình với nghiệp chè. Ở trường học, mỗi dịp thức khuya ôn bài, các bạn lại uống trà của Viện. Anh em động viên, sẽ trả tiền để Viện mang chè quê mình cho các bạn sử dụng. Vậy là mỗi lần về quê, sinh viên Tống Văn Viện lại mang thêm ít chè cho anh em. Chè sạch của người Tày trên núi lại làm thủ công nên được nhiều người ưa dùng. Dần dà, anh cung cấp chè cho cả ký túc, các dãy phòng trọ và quán hàng gần trường. Viện có tên mới và được tất thảy ai đã gặp đều gọi vui là “Viện chè”. Hồi tưởng lại, anh kể, lúc ấy, giống như hầu hết các hộ dân trong bản, để có tiền cho con cái đi học xa, bố mẹ anh chỉ biết trông vào mấy nương chè trên núi. Các gia đình khác thì dành dụm tiền bán chè đưa cho con, còn bố mẹ anh lại đóng gói chè để anh mang đi bán lấy tiền theo học. Giá trị mỗi gói chè được nâng cao nhờ anh em, bè bạn tự nguyện ủng hộ. “Viện chè” được nhiều người tìm đến để đặt mua hàng, anh trở thành sinh viên vừa học vừa làm vì đã là đầu mối tiêu thụ chè. Trước là cho gia đình, sau là cho họ hàng, bà con dân bản.
Xưởng sản xuất chè của HTX nông sản Phú Lương
Các mối hàng của Viện được duy trì và mở rộng, kể cả khi anh đã ra trường và tìm được việc làm tại tổng kho của Công ty UNILEVER. Đó cũng là quá trình bắt buộc những gói chè của Viện phải thay đổi hình thức, mẫu mã và phải có tên gọi. Tranh thủ những ngày nghỉ, Viện về quê lân la hang cùng ngõ hẻm của những vùng chè nổi tiếng. Anh đi dọc sườn đông dãy Tam Đảo, từ La Bằng, Hoàng Nông đến Quân Chu; trò chuyện với những nghệ nhân nổi tiếng của chè Hùng Sơn, Khe Cốc; xin được làm việc cùng người dân Trại Cài, Văn Hán; xuôi dòng sông Công để học hỏi cách làm chè của xứ chè Tân Cương, Phúc Xuân, Phúc Trìu, Bình Sơn… Vừa học nghề, anh vừa tranh thủ buôn bán. Mỗi miền chè đi qua được anh cẩn thận tổng kết tính chất của sản phẩm để cung ứng cho mỗi tệp khách hàng riêng. Có một điểm chung của khách hàng là dù giống chè gì, được sản xuất ra sao, mang đặc trưng thế nào thì mong muốn vẫn phải là chè sạch, chè an toàn. Viện chợt loé lên suy nghĩ về bản người Tày Khau Lai của mình được thiên nhiên ưu ái cho khí hậu ôn hòa. Với bán kính 30 km, Khau Lai vẫn im lìm mỗi buổi sớm bởi không gần các khu, cụm công nghiệp. Thiên nhiên ấy, khí hậu, thổ nhưỡng, phong thủy ấy và cách sản xuất truyền thống của người Tày Khau Lai thì lấy tên chè là Hương Quê. Chè Hương Quê cần mẫn len lỏi vào các cửa hàng tạp hóa, các siêu thị. Đến nay, sản phẩm chè Hương Quê đã được bán tại 3.000 cửa hàng, siêu thị trên toàn quốc với mức tăng trưởng sản lượng bình quân 150%/năm. Ngoài kênh bán hàng truyền thống, sản phẩm còn được bán trên các nền tảng online như TikTok, Facebook, Zalo…Thành quả nói trên được bắt nguồn từ ý tưởng tạo ra một dòng sản phẩm có chất lượng ổn định. Theo anh Viện, thời điểm trước năm 2013, dù đã nắm vững được kỹ thuật sản xuất nhưng anh vẫn chỉ là con buôn nên không thể chắc chắn mỗi gói chè được thu mua từ các vùng khác nhau sẽ có chất lượng đảm bảo như thế nào.
Năm 2013, Viện xin nghỉ việc tại công ty liên doanh. Anh quay về bản với quyết tâm thay đổi phương thức sản xuất trên chính nương chè của gia đình. Hoài bão của Viện được bố mẹ ủng hộ. Từ thành quả của việc kinh doanh, anh thuyết phục được họ hàng cùng tham gia phương thức sản xuất mới trên quy mô 6 ha. Với việc xây dựng vùng nguyên liệu gốc theo định hướng xanh và bền vững, Viện miệt mài sớm tối trên vườn chè. Anh thuê chuyên gia để dạy cách làm chè hữu cơ, xây dựng xưởng sản xuất phân hữu cơ từ việc tận dụng phân chuồng, phân xanh, cá tép… Anh cùng chuyên gia hướng dẫn bà con cách làm phân hữu cơ, cách chế biến thuốc bảo vệ thực vật. Bà con dị nghị nhiều. Có người thẳng thắn nói, làm chè mà không phun thuốc hóa học thì chỉ có ăn đất. Dân bản xì xào bảo anh quá tự tin, ảo tưởng, hãnh tiến. Người ác miệng to nhỏ: Cóc chết ba năm quay đầu về núi. Người lo lắng và thân tình rỉ tai bố mẹ anh rằng, cháu đi học, đi làm, ngỡ tưởng thành đạt lắm, ai ngờ lại về đây “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Hay ông bà đi xem để cúng bái, nhỡ có phải ma rừng, thần núi bắt hồn, trộm vía của nó rồi. Bỏ ngoài những đàm tiếu, điều mà Tống Văn Viện ái ngại nhất là nếu thất bại ngoài thương trường thì chỉ mình mình chịu, nay về bản với mô hình đang xây dựng mà xảy ra rủi ro thì đó là thất bại của cả gia đình, dòng họ. Bố mẹ lo lắng, Viện vừa động viên, vừa lặng lẽ nỗ lực làm việc. Vườn chè hữu cơ sau thời gian đầu bị sốc đã dần dà tươi tốt và cho ra sản phẩm. Những khách hàng khó tính hiểu rõ chân giá trị của sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, sẵn sàng trả giá cao cho Viện.
Thu hái chè hữu cơ tại HTX Nông sản Phú Lương
Chè hữu cơ Hương Quê mang lại hiệu quả kinh tế cao, “một vốn bốn lời”. Cách làm không khó, lại tận dụng được nhiều phế phụ phẩm của sản xuất và sinh hoạt. Người Tày ở bản Khau Lai càng thêm tin yêu “Viện chè”. Đồng bào đề xuất và tự nguyện xin được tham gia làm vệ tinh để cùng thực hành phương thức sản xuất tốt do Viện khởi xướng. Năm 2020, Viện thành lập HTX nông sản Phú Lương. HTX có vùng nguyên liệu lên đến 50 ha. HTX đã giải quyết việc làm cho 20 lao động thường xuyên và 60 lao động thời vụ với mức lương 6 triệu đồng/người/tháng. Năm 2024, HTX đạt doanh thu 13 tỷ đồng. Năm 2023, HTX có 3 sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn OCOP 4 sao. Năm 2025, sản phẩm chè tôm nõn Hương Quê đạt OCOP 5 sao cấp Trung ương.
Hẹn gặp Viện, chúng tôi phải chờ nửa tháng. Lý do là anh bận đi học tập cách làm du lịch cộng đồng cả trong Nam ngoài Bắc và ở nước ngoài. Trong ngôi nhà sàn vừa được dựng mới, Giám đốc Viện nhỏ nhẹ bộc bạch, hướng đến tiếp theo là xây dựng HTX thành mô hình điểm cấp quốc gia. Ngôi nhà sàn này chính là địa điểm để các thành viên HTX và bà con trong bản đến học tập, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất và mỗi tối sẽ tổ chức phục dựng nghệ thuật đàn tính, hát then của đồng bào dân tộc Tày. Sắp tới, toàn bộ hoạt động sản xuất, văn hóa văn nghệ và hạ tầng của HTX sẽ được khai thác để phục vụ du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Trả lời về thành quả của mình, Viện khiêm tốn, tất cả gói gọn trong 2 chữ biết ơn. Rồi anh giải thích, biết ơn cây chè đã nuôi sống bản thân anh cũng như dân bản nên anh muốn tạo ra những vườn chè mạnh khỏe; biết ơn đất, tạ ơn núi nên anh muốn trả lại cho đất sự mỡ màu vốn có của nó; biết ơn đấng sinh thành, họ hàng, bà con dân bản và khách hàng mà tạo nên một vòng tròn xanh, cùng thụ hưởng sự phát triển bền vững.
Uống rượu nếp vải, thưởng trà Khau Lai, nghe hát then đàn tính dưới ánh trăng tiết Vu Lan bên mái nhà sàn, Phó Chủ tịch UBND xã Hợp Thành Nguyễn Văn Thương hứng khởi, lãnh đạo và bà con Nhân dân địa phương cũng rất biết ơn em đã dám nghĩ, dám làm để bản nhỏ vùng cao thuộc một xã vùng sâu, một miền quê vùng xa còn nghèo của chúng ta hôm nay rất đỗi tự hào bởi thương hiệu chè Hương Quê Khau Lai nổi tiếng đã được định danh ở tầm quốc gia.
thainguyen.gov.vn