Khẳng định vị thế “đệ nhất danh trà” trong kỷ nguyên mới - Bài 1: Khát vọng một vùng chè
2025-08-11 16:58:00.0
Bài 1: Khát vọng một vùng chè
Lạc giữa những triền đồi chè xanh miên man của Thái Nguyên, tựa như những dải lụa mềm mại vắt trên vai cô thôn nữ đang thẹn thùng làm duyên, tôi thấy mình bị quyến rũ từ ngay từ giây phút đầu gặp gỡ. Đắm mình vào không gian của vùng đất trung du nguyên sơ, thơ mộng, tôi cảm nhận thật rõ nhựa sống căng tràn trong tầng tầng lớp lớp những nương chè đẫm gió, thẫm sương của đất trời, đang hân hoan rủ nhau bật những chồi non mơn mởn, dâng tặng cho đời.
Đồi chè Cầu Đá, xã La Bằng trở thành điểm thu hút khách du lịch
Định vị thương hiệu một vùng đất
Thái Nguyên được thiên nhiên ưu đãi khí hậu ôn hòa, mát mẻ và độ ẩm cao, cùng với chất đất feralit đỏ vàng, đây là điều kiện lý tưởng cho cây chè sinh trưởng và phát triển. Tỉnh nổi tiếng với "Tứ đại danh trà" đó là: Tân Cương, La Bằng, Trại Cài, và Khe Cốc. Mỗi vùng chè đều mang nét đặc trưng riêng, tạo sự đa dạng, phong phú cho thương hiệu “chè Thái”. Theo nghiên cứu của Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Thái Nguyên), đất feralit trên địa bàn tỉnh chứa nhiều vi lượng như kali và magiê, góp phần tạo nên hương vị đặc trưng cho cây chè nơi đây, làm nên sự khác biệt.
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, theo Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chè Việt Nam, trà Thái Nguyên vượt trội về chỉ số catechin (120-150 mg/g) và polyphenol (25-30%), tạo nên vị chát dịu và hậu ngọt đặc trưng, trong khi trà Bảo Lộc có catechin thấp hơn (100-130 mg/g) và trà Mộc Châu ít polyphenol hơn (20-25%). Cũng theo nghiên cứu này, trà Thái Nguyên đạt 8,5/10 về hương thơm tổng thể và 8,3/10 về hậu vị, cao nhất trong các dòng chè xanh Việt Nam. Đặc tính này có được là nhờ các yếu tố: Giống chè, thổ nhưỡng, khí hậu, kỹ thuật canh tác truyền thống kết hợp với quy trình chế biến tỉ mỉ, như việc thu hái búp chè vào sáng sớm khi sương còn đọng trên lá và quy trình sao chè dựa trên kinh nghiệm truyền thống vẫn được gìn giữ qua các thế hệ.
Về phía các chuyên gia phân tích, trà Thái Nguyên độc đáo bởi vừa có vị chát dịu, hậu ngọt sâu, vừa thoang thoảng hương cốm non thanh tao, uống một lần là khó quên. So với trà Bảo Lộc (Lâm Đồng), sinh trưởng trên vùng đất đỏ bazan và khí hậu mát mẻ, nên nổi bật với vị đậm đà, mạnh mẽ, phù hợp với người yêu thích hương vị nồng nàn, còn trà Thái Nguyên mang sắc thái nhẹ nhàng hơn. Hay trà Mộc Châu (Sơn La), có vị thanh mát, tươi mới, nhưng thiếu chiều sâu trong hậu vị so với trà Thái Nguyên. Trong khi đó, trà đâm của Nghệ An mang phong cách mộc mạc, với vị chát nhẹ và hương thơm không đạt được sự phức hợp như trà Thái Nguyên. Tất nhiên mỗi người có sự cảm nhận và “gu trà” khác nhau nên sẽ chọn cho mình loại phù hợp nhất để thưởng thức.
Du khách cảm nhận lá trà sau khi sao máy
Điều thú vị là cùng sinh trưởng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, nhưng mỗi vùng chè, do đặc điểm tự nhiên không giống nhau nên mang đến những hương vị riêng. Như chè Tân Cương nổi tiếng với hương cốm non, thoạt đầu uống có chút chát nhẹ nơi đầu lưỡi, sau đó đọng lại hậu ngọt thanh, sâu lắng, nước trà có mầu vàng ánh xanh trong trẻo. Còn La Bằng có đặc điểm là hương vị trà đậm đà, mộc mạc. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hải, Chủ tịch HĐQT Hợp tác xã (HTX) Chè La Bằng, chia sẻ: “Trà La Bằng mang hồn núi rừng, vừa hoang sơ vừa quyến rũ, như câu chuyện của đất và người nơi đây.” Vùng chè Trại Cài lại được nuôi dưỡng bởi phù sa mầu mỡ từ sông Cầu nên chè nơi đây là sự hòa quyện tinh tế giữa vị đắng, ngọt, chát, thơm.
Chè Thái Nguyên không chỉ là thức uống mà còn là biểu tượng văn hóa của một vùng đất giàu truyền thống. Tôi đặc biệt ấn tượng với mỗi cuộc thưởng trà ở đây, được tiến hành như một nghi lễ, vừa mang tính nghệ thuật, vừa gửi gắm những phong vị văn hóa sâu lắng, dạy chúng ta cách trân trọng từng chén trà tinh túy, thấm đẫm mồ hôi công sức và tâm huyết của những người nông dân xứ chè. Các trà nương thực hành việc pha trà, từ tráng cốc, thả trà, châm nước, đến rót trà mời khách với những động tác uyển chuyển, khoan thai. Để thưởng thức trà, tuyệt đối không thể vội vã, mà cần nhấp từng chút, từng chút, để thấm, để hiểu và để yêu. Những buổi thưởng trà dù trong thư phòng, dưới hiên nhà hay trong bóng cây xanh mát đều là dịp quý giá để bạn bè gần xa kết nối giao tình, chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống. Và sâu xa hơn, qua những buổi thưởng trà đậm sắc mầu văn hóa là cách để thế hệ hôm nay biết trân trọng và ý thức sâu sắc về việc lưu giữ các giá trị truyền thống. Một nghệ nhân có hơn 40 năm gắn bó với cây chè chia sẻ: “Cái duyên với chè là sự đồng cảm. Mỗi búp chè mang hồn đất, hồn người. Pha trà, thưởng trà là cách chúng tôi giữ gìn bản sắc.”
Du khách tham quan Không gian Văn hóa trà Tân Cương
Năm 2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận, tri thức trồng và chế biến chè Tân Cương là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Sự kiện ghi dấu mốc quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị cây chè, thúc đẩy phát triển du lịch và kinh tế địa phương. Toàn tỉnh hiện có 230 làng nghề chè và 77 hợp tác xã, ngoài ra, còn có khoảng gần 40 doanh nghiệp cũng tham gia sản xuất, chế biến và kinh doanh chè, tạo nên một hệ sinh thái sản xuất và văn hóa trà bền vững. Nhiều hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại,... đã được địa phương triển khai thời gian qua mang lại hiệu quả thiết thực. Tiêu biểu như Festival Trà Thái Nguyên lần thứ III (2015) đã thu hút hơn 10.000 lượt khách. Từ những tách trà nhỏ bé, người Thái Nguyên gửi gắm tình yêu, niềm tự hào và khát vọng đưa thương hiệu “đệ nhất danh trà” vươn xa.
Khai mở những tiềm năng để phát triển
Hành trình phát triển ngành chè Thái Nguyên là câu chuyện về sự đổi mới không ngừng. Người nông dân đất chè hôm nay đã biết làm chủ công nghệ mới trong trồng trọt, như việc chuyển đổi cơ cấu giống chè, áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm nước, cơ giới hóa trong sản xuất và sơ chế. Nhờ đó giải phóng sức lao động cho người nông dân, từng bước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm chè. HTX chè Hảo Đạt (Tân Cương) là một ví dụ điển hình. Thành lập năm 2016, đến nay HTX đã đầu tư hai xưởng chế biến rộng 2000 m², trang bị máy sao chè, máy vò, máy hút chân không và hai kho bảo quản lạnh 400 m², đạt công suất 150 tấn chè thành phẩm mỗi năm. Sản phẩm Trà Đinh của Hảo Đạt đạt chuẩn OCOP 5 sao, xuất khẩu sang Mỹ, Canada, Nga và Anh, có mặt tại khắp các tỉnh thành trên cả nước. Bà Đào Thanh Hảo, Giám đốc HTX, chia sẻ: “Chúng tôi kết hợp truyền thống và công nghệ hiện đại để giữ hương vị đặc trưng và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.”
Một điểm sáng khác trong việc phát huy giá trị kinh tế từ hệ sinh thái chè Thái Nguyên là các hợp tác xã và người dân đã chủ động kết nối hoạt động lao động sản xuất với du lịch. Như HTX Trà và Du lịch Cộng đồng Tiến Yên (Tân Cương) đã xây dựng kế hoạch khai thác vùng nguyên liệu 50 ha đạt chuẩn VietGAP, cảnh quan thiên nhiên khoáng đạt, trữ tình, thơ mộng để mời gọi du khách đến trải nghiệm. HTX đã đầu tư làm tuyến đường bê tông dài 1 km xuyên qua đồi chè, thuận tiện cho du khách đến ngắm cảnh. Trong năm 2024, nơi đây đã thu hút hơn 5.000 lượt khách, góp phần kích cầu du lịch của địa phương. Hay tại La Bằng, các HTX cũng tận dụng cảnh quan vùng chè xanh mát, dòng suối Kẹm hoang sơ, trong mát và các sản phẩm trà đặc trưng để thu hút du khách. Các tour du lịch sinh thái có cách hoạt động tham quan đồi chè, tìm hiểu về lịch sử, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc, tìm hiểu quy trình sản xuất và thưởng thức các món ăn, đồ uống từ chè.
Một điểm du lịch sinh thái kết hợp trải nghiệm văn hóa chè
Từ những nỗ lực đổi mới của các doanh nghiệp, HTX trên toàn tỉnh đã giúp ngành chè Thái Nguyên gặt hái được những kết quả rất đáng tự hào. Dẫn đầu cả nước với diện tích trồng lên đến 22.500 ha chè, năm 2024 tỉnh thu hoạch 267.500 tấn búp tươi, đạt doanh thu trên 13.000 tỷ đồng (tăng trên 1.000 tỷ đồng so với năm 2022), chiếm 45% giá trị sản xuất trồng trọt. Tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025, diện tích chè đạt 23.500 ha, với 85% là giống mới, sản lượng 273.000 tấn búp tươi, và giá trị bình quân 350 triệu đồng/ha.
Đầu năm 2025, sự kiện phát hiện ra quần thể chè cổ thụ trên núi Tam Đảo, xã La Bằng (huyện Đại Từ cũ) được người Thái Nguyên hân hoan đón nhận. Đoàn khảo sát khi đó có sự tham gia của PGS.TS Hà Duy Trường, Giám đốc Trung tâm Đào tạo, nghiên cứu giống cây trồng và vật nuôi (Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên) và nghệ nhân Nguyễn Thị Hải. Không ngại thời tiết mưa rét, địa hình hiểm trở, đoàn đã hăm hở vượt núi, băng rừng, theo sự chỉ đường của người dân bản địa, lên tận đỉnh núi hoang sơ, mờ mịt sương gió. Tại đây đoàn đã ghi nhận khoảng 20 chè Shan quý, tuổi đời ước tính trên 200 năm, với đặc điểm lá răng cưa chìm, búp chè hình măng bọc vỏ cứng. PGS.TS Hà Duy Trường nhận định chè Shan Móng Rồng ở Tam Đảo là di sản tự nhiên quý giá, có tiềm năng tạo ra sản phẩm cao cấp. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hải xúc động chia sẻ: “Đứng trước những gốc chè cổ thụ, tôi cảm nhận được lịch sử và hồn đất Thái Nguyên. Đây là cầu nối để kể câu chuyện văn hóa La Bằng”.
Việc phát hiện quần thể chè cổ thụ trên Tam Đảo mở ra triển vọng mới cho phát triển du lịch sinh thái và nghiên cứu về lịch sử cây chè của tỉnh. Trong đó việc bảo tồn nguồn gen quý để lai tạo giống mới là yêu cầu có tính cấp bách. Hiện nay, Hội đồng khoa học tỉnh Thái Nguyên đề xuất đưa quần thể chè Tam Đảo vào danh sách cây di sản, tương tự dự án bảo tồn chè cổ thụ núi Bóng, để bảo tồn và phát huy giá trị. Những hướng phát triển cho cây chè ở Thái Nguyên tiếp tục được mở ra với tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng...
(Còn nữa)
thainguyen.gov.vn