Truy cập nội dung luôn

“Bệ đỡ” cho công nghiệp nông thôn phát triển bền vững

Thời gian qua, cùng với sự đồng hành của chính quyền, các chính sách khuyến công đã trở thành đòn bẩy quan trọng giúp doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và cơ sở sản xuất mạnh dạn đổi mới, đầu tư, mở rộng thị trường. Đặc biệt, việc HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 06/2025/NQ-HĐND quy định cụ thể nội dung và mức chi cho hoạt động khuyến công địa phương được xem như “bệ đỡ” chính sách, tạo hành lang pháp lý và nguồn lực thúc đẩy công nghiệp nông thôn (CNNT) phát triển.

Nghị quyết số 06 góp phần tạo hành lang pháp lý và nguồn lực thúc đẩy CNNT phát triển. (Trong ảnh: Thu hái chè tại HTX Chè Hảo Đạt, xã Tân Cương)

Theo thống kê, giai đoạn 2021 - 2025, toàn tỉnh Thái Nguyên đã triển khai 153 đề án khuyến công địa phương, với tổng kinh phí trên 27 tỷ đồng. Nguồn lực này đã hỗ trợ hàng trăm cơ sở CNNT trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư máy móc tiên tiến, xây dựng mô hình sản xuất sạch hơn, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm. Từ những xưởng cơ khí nhỏ, cơ sở sản xuất chè, đến các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, khuyến công đã tạo nên những chuyển biến rõ rệt cả về quy mô lẫn tư duy sản xuất.

Tại vùng chè nổi tiếng Tân Cương, HTX Chè Hảo Đạt là một trong những đơn vị sớm tiếp cận chính sách hỗ trợ này. Bà Đào Thanh Hảo, Giám đốc HTX chia sẻ rằng, trước đây phần lớn công đoạn sản xuất còn thủ công, sản phẩm chưa đồng đều, khó đáp ứng yêu cầu thị trường cao cấp. “Nhờ được hỗ trợ kinh phí ứng dụng máy móc sao sấy và đóng gói tự động, chúng tôi đã nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất gần 50%. Quan trọng hơn, sản phẩm trà của HTX đã được đưa vào các hệ thống siêu thị lớn và cung cấp ra nhiều tỉnh, thành. Có thể nói, chính sách khuyến công là động lực quan trọng giúp các HTX chè như chúng tôi bước sang giai đoạn sản xuất hiện đại hơn” - bà Hảo nói.

Nghị quyết 06 quy định cụ thể các mức chi cho nhiều hoạt động, trong đó có hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến, chuyển giao công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật cho cơ sở CNNT

Không chỉ hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị hay tập huấn, đào tạo lao động, công tác khuyến công còn đóng vai trò là “chất xúc tác” giúp các cơ sở mạnh dạn đổi mới công nghệ, nâng cao giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường. Để tiếp tục tạo điều kiện cho các hoạt động khuyến công đi vào chiều sâu, sát thực tiễn sản xuất, tại Kỳ họp thứ Ba, HĐND tỉnh Thái Nguyên khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 06/2025/NQ-HĐND quy định nội dung và mức chi cho các hoạt động khuyến công địa phương. Nghị quyết được xem là bước hoàn thiện quan trọng về thể chế, vừa bảo đảm tính đồng bộ pháp lý trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, vừa tạo hành lang thuận lợi để khuyến công thực sự trở thành đòn bẩy cho CNNT phát triển.

Theo đó, các mức hỗ trợ được quy định cụ thể, rõ ràng và thiết thực như: Hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật tối đa 30% chi phí, không quá 700 triệu đồng/mô hình; hỗ trợ mô hình sản xuất sạch hơn tối đa 30% chi phí, không quá 500 triệu đồng/mô hình; hỗ trợ ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến, chuyển giao công nghệ tối đa 50% chi phí, không quá 210 triệu đồng/cơ sở; hỗ trợ 100% chi phí thuê gian hàng hội chợ triển lãm hàng CNNT, hàng thủ công mỹ nghệ trong nước; hỗ trợ 100% chi phí vé máy bay cho các cơ sở CNNT tham gia khảo sát, học tập kinh nghiệm tại nước ngoài; hỗ trợ xây dựng và đăng ký nhãn hiệu, không quá 35 triệu đồng/nhãn hiệu; chi hỗ trợ hình thành cụm liên kết doanh nghiệp công nghiệp tối đa 50% chi phí, nhưng không quá 150 triệu đồng/cụm liên kết; chi hỗ trợ sửa chữa, nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường tại cơ sở CNNT tối đa 30% chi phí, nhưng không quá 300 triệu đồng/cơ sở…

Xưởng sản xuất cơ khí của Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và sản xuất Tùng Hà (xã Trại Cau) 

So với các giai đoạn trước, Nghị quyết 06 có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, cơ chế rõ ràng và linh hoạt hơn, phù hợp với thực tiễn phát triển của tỉnh trong mô hình chính quyền 2 cấp mới. Các hoạt động khuyến công được ưu tiên hỗ trợ cho những lĩnh vực có tiềm năng và tác động lan tỏa cao như chế biến nông, lâm sản; cơ khí; sản xuất vật liệu xây dựng; sản phẩm thủ công mỹ nghệ; chè và các ngành nghề truyền thống. Nhiều nội dung hỗ trợ đã được điều chỉnh theo hướng tăng tính thực chất, ví dụ hỗ trợ đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp, ứng dụng máy móc thiết bị tiên tiến, chuyển giao công nghệ, mô hình sản xuất sạch hơn… Mức hỗ trợ được nâng lên đáng kể, từ 30% đến 50% chi phí tùy loại hình, giúp doanh nghiệp và HTX mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ. Ông Vũ Duy Tùng, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và sản xuất Tùng Hà (xã Trại Cau) chia sẻ: “Trước đây, cơ sở chúng tôi muốn đầu tư máy móc mới để tăng năng suất nhưng vốn hạn hẹp, việc tiếp cận hỗ trợ cũng khá phức tạp. Nghị quyết 06 quy định rõ ràng từng mức chi, từng nội dung hỗ trợ, giúp doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi có cơ sở mạnh dạn đầu tư hơn. Tôi tin khi Nghị quyết này đi vào thực tế, nhiều cơ sở CNNT sẽ có thêm điều kiện đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm”. Còn bà Long Thùy Dung - một hộ sản xuất kinh doanh chè ở xã Đại Phúc thì cho biết: “Các hộ sản xuất chè nhỏ lẻ như gia đình chúng tôi, nhiều khi rất muốn đưa sản phẩm của mình đi trưng bày tại các hội chợ để tìm kiếm đầu ra, học hỏi thêm mẫu mã, xu hướng thị trường. Nhưng nghĩ đến việc phải tự lo toàn bộ chi phí gian hàng, ăn ở, vận chuyển… thì đành chùn bước, bỏ lỡ cơ hội quảng bá. Nay Nghị quyết 06 có quy định hỗ trợ 100% chi phí thuê gian hàng hội chợ triển lãm hàng CNNT trong nước và 80% chi phí thuê gian hàng tham gia các hội chợ triển lãm khác, chúng tôi thật sự phấn khởi. Chính sách này giúp những cơ sở nhỏ mạnh dạn hơn trong việc giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường.”

Đóng gói sản phẩm trà mướp đắng rừng tại HTX Nông nghiệp Tiên Phong (xã Yên Trạch)

Với cơ chế linh hoạt, phạm vi hỗ trợ mở rộng, Nghị quyết 06 không chỉ khơi dậy tiềm năng công nghiệp ở khu vực nông thôn, mà còn tạo động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, hướng tới mục tiêu xây dựng nền CNNT năng động, hiệu quả. Anh Nguyễn Quốc Hoàng, Giám đốc HTX Nông nghiệp Tiên Phong (xã Yên Trạch) cho rằng: “Điều tôi thấy tích cực nhất là Nghị quyết đã cụ thể hóa việc hỗ trợ mô hình sản xuất sạch hơn và đăng ký nhãn hiệu sản phẩm. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao giá trị và mở rộng thị trường. Khi chính sách được triển khai đồng bộ, các HTX, doanh nghiệp của Thái Nguyên sẽ có thêm động lực để chuyển đổi sang hướng sản xuất xanh, bền vững hơn.”
Từ những định hướng rõ ràng của Nghị quyết 06, Thái Nguyên đang khẳng định quyết tâm xây dựng nền CNNT năng động, sáng tạo và bền vững. Những chính sách đúng đắn, đi vào thực tiễn đời sống sản xuất đang biến khuyến công thành “nguồn năng lượng mềm”, thúc đẩy đổi mới từ bên trong và trở thành “bệ đỡ” vững chắc cho CNNT Thái Nguyên phát triển bền vững, đóng góp ngày càng lớn vào bức tranh kinh tế chung của tỉnh.

Kim Oanh
thainguyen.gov.vn