Truy cập nội dung luôn

Đại đoàn kết dân tộc - Động lực chủ yếu phát huy sức mạnh Nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Đoàn kết dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước suốt hàng nghìn năm qua. Đoàn kết dân tộc là tập hợp có ý thức các thành phần Nhân dân, gắn kết các cá nhân lại với nhau để phát huy mặt mạnh, bù đắp mặt yếu, tạo nên động lực phát triển đất nước. Do đó, đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Những vấn đề mới phát huy sức mạnh của Nhân dân trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước

Quá trình vận dụng nguyên lý kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh của Nhân dân trong điều kiện mới để phát triển đất nước một cách mạnh mẽ và bền vững hơn, khắc phục những hạn chế, vượt qua mọi khó khăn thách thức, đó chính là công tác dân vận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, dân vận là vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những nhiệm vụ được giao. Có thể rút ra mấy đặc điểm của việc vận động phát huy sức mạnh Nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là:

1) Phải khơi dậy mọi tiềm năng của từng người dân để phát huy tính tích cực xã hội của họ, không khả năng nào bị lãng quên và bỏ phí, theo kinh nghiệm của người xưa “dụng nhân như dụng mộc”.

2) Vận động mọi người dân, không phân biệt đối xử và bỏ sót một ai. Mọi người dân đều có cơ hội, có vị trí xứng đáng trong xã hội, đều được tạo điều kiện thể hiện vai trò làm chủ của mình nếu như họ không đi ngược lại lợi ích của Nhân dân.

3) Mục đích của việc phát huy sức mạnh của Nhân dân là tạo nên lực lượng của cả cộng đồng để hoàn thành những việc nên làm, những nhiệm vụ được giao có lợi ích cho dân, cho nước và cho bản thân mỗi người.

4) Cách vận động, phát huy sức mạnh Nhân dân tốt nhất là tạo điều kiện cho mọi người có thể hành động tự nguyện, tự giác trên cơ sở hiểu biết sâu sắc ý nghĩa của công việc mình làm, có sự hướng dẫn, giúp đỡ, kiểm soát từ phía cộng đồng, từ phía cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa tính tự giác của người làm chủ xã hội và làm chủ bản thân của mỗi công dân với tinh thần phụ trách của người lãnh đạo, người quản lý với tư cách là người phục vụ, là công bộc của dân.

Những đặc điểm trên đây thể hiện sự tin cậy, sự tôn trọng, sự am hiểu, sự trung thành… đối với dân, là triết lý cơ bản và định hướng lớn cho việc phát huy sức mạnh của Nhân dân nhằm phát triển đất nước. Đó cũng chính là những điều kiện cốt yếu để phát huy sức mạnh của toàn dân, không có những điều kiện ấy thì việc ca ngợi sức mạnh toàn dân sẽ chỉ là lý thuyết suông. Tạo được 4 điều kiện đó quả không dễ dàng, nhưng với sự đổi mới sâu sắc về nhận thức đó, chắc chắn chúng ta sẽ có cơ sở để thực hiện được ý tưởng: “Dễ trăm lần, không dân cũng chịu; Khó vạn lần, dân liệu cũng xong”.

Kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra, nhìn từ góc độ đại đoàn kết dân tộc ở nước ta

Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cùng bà con xã Mường Sang trong Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc (Ảnh minh họa)

Bài học rút ra từ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chỉ ra cội nguồn sức mạnh của Nhân dân chính là Đoàn kết toàn dân tộc và đã đúc kết thành chân lý giản dị “một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại thành hòn núi cao” và “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Từ tư tưởng của các vĩ nhân đến thực tế cuộc sống đều khẳng định con đường đoàn kết toàn dân tộc chính là con đường đúng đắn nhất, có hiệu lực mạnh mẽ nhất, phù hợp với quy luật khách quan nhất để phát huy cao nhất sức mạnh của Nhân dân nhằm phát triển đất nước. Nhận thức đó không phải là mới, điều cần quan tâm là những vấn đề đặt ra từ kinh nghiệm thực tế xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay ở nước ta. Có thể rút ra một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, trải qua gần một thế kỷ lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì đường lối tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ một cách linh hoạt và sáng tạo, thêm bạn bớt thù, làm cho lực lượng cách mạng ngày càng lớn mạnh, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong bối cảnh đất nước hôm nay, đứng trước thời cơ và thách thức, vận hội và nguy cơ, hơn lúc nào hết bài học về đoàn kết toàn dân tộc, phát huy mạnh mẽ sức mạnh của Nhân dân với tư cách là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước càng trở nên quan trọng, đòi hỏi phải được nâng lên một tầm cao mới, đoàn kết mọi người Việt Nam có tài có đức, có sức, có lòng yêu nước, vì mục tiêu chung dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thời luôn cảnh giác với mọi âm mưu chia rẽ hàng ngũ Nhân dân, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.

Như vậy, đòi hỏi mở rộng sự đoàn kết và huy động xã hội rộng rãi kết hợp với bản lĩnh chính trị kiên định và sự linh hoạt, sáng tạo không ngừng khi nhận định những biến đổi xã hội. Đó là bài học xây dựng phải luôn đi đôi với bảo vệ vững chắc khối đoàn kết toàn dân.

Thứ hai, quá trình tập hợp, đoàn kết phát huy tiềm năng của toàn dân là quá trình không ngừng phát huy truyền thống tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong điều kiện mới, đồng thời không ngừng phát hiện, cải tạo, khắc phục những nhược điểm, hạn chế của lịch sử để lại, làm cho cái mới, cái hay, cái tốt đẹp… ngày càng nảy nở, phát triển, thay thế dần cái cũ kỹ, lạc hậu.

Ở vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xã hội ta đang diễn ra quá trình chuyển đổi toàn diện các mặt của đời sống, từ chiến tranh sang hòa bình, từ mô hình quản lý tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ chế độ chuyên chính vô sản sang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… tính đan xen cái cũ và cái mới là thực tế trong quá trình huy động Nhân dân cho phát triển đất nước, cần phải biết gạn đục khơi trong trong Nhân dân, củng cố nội bộ.

Thứ ba, muốn tập hợp phát huy sức mạnh Nhân dân trong khối đoàn kết dân tộc cần vững vàng, kiên định, linh hoạt, sáng tạo xử lý hài hòa các mối quan hệ: dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, chiến lược và sách lược, lợi ích toàn bộ và bộ phận, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích cá nhân và cộng đồng. Trong quá khứ các mối quan hệ đó đã được xử lý thành công, nhưng trong điều kiện mới hiện nay, việc xử lý các quan hệ đó đang đặt ra những yêu cầu và phương pháp mới cần được xem xét thấu đáo cho phù hợp với thực tế.

Thứ tư, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc đòi hỏi sự sâu sát và cụ thể hóa đối với từng bộ phận cấu thành trong Nhân dân. Kinh nghiệm từ thực tiễn lịch sử cho thấy chỉ có thấu hiểu nhu cầu và lợi ích, đặc điểm xã hội của từng bộ phận Nhân dân mới có thể tập hợp động viên mọi tiềm năng trong Nhân dân phục vụ cho sự phát triển đất nước.

Thứ năm, phát huy sức mạnh của Nhân dân trong tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất là kinh nghiệm sáng tạo trong lịch sử Đảng ta, tạo nên một mô hình tổ chức rộng rãi mà chặt chẽ, một kiểu tổ chức quần chúng đóng vai trò nòng cốt chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Trong tình hình hiện nay, đặt ra vấn đề cần tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của dân, đại diện và bảo vệ quyền lợi của dân, bảo vệ và xây dựng Đảng, Nhà nước, chế độ chính trị.

Trong quá khứ, không lúc nào vắng bóng Mặt trận, thực sự Mặt trận đã đóng vai trò không thể thiếu trong lịch sử cách mạng nước ta. Ngày nay, để giữ vững vai trò đó, còn phải làm nhiều việc để khẳng định vị thế của tổ chức này trong thực tế. Nòng cốt có vững chắc sẽ là tiền đề làm cho cả khối đoàn kết dân tộc được vững chắc.

Thứ sáu, luôn luôn bảo đảm tính chính thể, kết hợp chặt chẽ giữa đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế là bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta. Đứng trước tình hình trong nước, khu vực và thế giới ngày nay, nhiều vấn đề mới đặt ra luôn luôn đòi hỏi sự nhạy bén trong việc động viên các phong trào, các cuộc vận động rộng rãi trong Nhân dân, tạo niềm tin của Nhân dân đối với đường lối đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ bảy, quá trình tập hợp, đoàn kết, phát huy sức mạnh của Nhân dân là quá trình đấu tranh khắc phục những yếu tố tiêu cực trong xã hội làm ảnh hưởng đến việc đoàn kết, tập hợp, phát huy vai trò của Nhân dân, như: bệnh quan liêu, chủ quan duy ý chí, mặt trái của nền kinh tế thị tường và hội nhập quốc tế, sự thoái hóa, biến chất, tự diễn biến tự chuyển hóa của một số người… Đó thực sự là những lực cản của việc phát huy sức mạnh của Nhân dân trong công cuộc phát triển đất nước.

Thứ tám, vận động Nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là công việc có khi cho là đơn giản; đó là sự ngộ nhận đang tồn tại dai dẳng ở một số cán bộ, đảng viên. Thực tế là đang thiếu những người có tố chất làm công tác vận động các tầng lớp nhân dân. Vấn đề đặt ra là cần có một chiến lược căn cơ xây dựng lực lượng nòng cốt đủ điều kiện phục vụ công tác vận động Nhân dân. Xét đến cùng thì cán bộ vẫn là nhân tố quyết định sự thành công của việc phát huy sức mạnh của toàn dân để phát triển đất nước. Có cán bộ tốt sẽ thực hiện được sự thống nhất trong đa dạng, tạo nên sức mạnh của toàn dân.

Thứ chín, quá trình phát huy sức mạnh của toàn dân là quá trình không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Những tiến bộ trong thực hành dân chủ thời gian qua là rõ ràng không thể phủ nhận, nó đã góp phần đáng kể không thể thiếu để khơi dậy sức mạnh của toàn dân trong quá khứ đấu tranh cách mạng và thời kỳ đổi mới gần bốn thập kỷ qua, nhưng những hạn chế trong thực hành dân chủ vẫn đang là lực cản việc phát huy sức mạnh to lớn tiềm tàng trong Nhân dân.

Thứ mười, sức mạnh của toàn dân là vĩ đại và vô địch, như cổ nhân nói "chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân". Sức mạnh đó chỉ có thể khơi dậy khi toàn dân củng cố được lòng tin bền vững vào ngọn cờ lãnh đạo, vào mục tiêu lý tưởng mà dân gắn bó. Lòng tin đó chẳng những được xây đắp trên nền tảng nhận thức lý trí, mà hơn thế nữa dựa trên kết quả hành động thực tế mang lại cho cuộc sống của bản thân và gia đình họ.

Đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân - động lực chủ yếu để phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Con đường phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân chính là, và chỉ có thể là đoàn kết toàn dân. “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết” là bài học lịch sử của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước suốt hàng nghìn năm qua. Đảng ta đã tổng kết và chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế toàn xã hội”1. Đây là bước phát triển mới của Đảng về lý luận đường lối phát huy sức mạnh của Nhân dân, coi sức mạnh của Nhân dân được đoàn kết lại là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước.

Đoàn kết dân tộc sở dĩ trở thành động lực chủ yếu vì những lý do sau đây:

1) Khơi dậy, nuôi dưỡng, phát huy tích cực xã hội của mỗi con người. Trong xã hội, mỗi con người tìm được chỗ đứng của mình, được tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp, được đối xử bình đẳng, được khuyến khích, tạo điều kiện cống hiến và hưởng thụ.

2) Do đường lối đoàn kết dân tộc đúng đắn nên có thể liên kết các cá nhân có nhu cầu và lợi ích chính đáng khác nhau cùng hành động vì mục đích chung và điểm tương đồng.

3) Thực hiện thống nhất trong đa dạng, trong khối đoàn kết dân tộc sự thống nhất được đề cao, sự khác biệt được lắng nghe và tôn trọng, tạo tiền đề cho việc giải quyết những mâu thuẫn nội bộ để không dẫn đến xung đột xã hội.

4) Đoàn kết dân tộc có khả năng củng cố sức mạnh nội lực, dùng sức dân để tự bồi đắp thành lũy cho dân, nâng cao khả năng tự bảo vệ trước mọi thủ đoạn của các thế lực chống phá khối đoàn kết toàn dân.

5) Đoàn kết dân tộc ở Việt Nam dựa trên chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính, trở thành nhu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển dân tộc, vì vậy động lực này có sức sống bền bỉ lâu dài suốt quá trình tồn tại, phát triển dân tộc.

Với những đặc điểm trên đây, đoàn kết dân tộc có thế mạnh và trở thành động lực chủ yếu trong các động lực thúc đẩy sự phát triển đất nước ta hiện nay, phản ánh những phát triển mới trong nhận thức về vai trò động lực chủ yếu của đoàn kết dân tộc đối với phát huy sức mạnh của nhân dân nhằm phát triển đất nước. Các nhà kinh điển đã từng chỉ ra những động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, như: sự phân công lao động xã hội, đấu tranh giai cấp, nhu cầu và lợi ích, sự phát triển lực lượng sản xuất. Một số nghiên cứu khác ở nước ta cũng nêu nhiều động lực, như: dân chủ, công bằng xã hội, tâm lý xã hội, niềm tin, văn hóa, khoa học kỹ thuật và công nghệ…

Mọi động lực đều có vai trò quan trọng, nhưng đoàn kết toàn dân là động lực chủ yếu phát huy sức mạnh Nhân dân để phát triển đất nước là một luận điểm đột phá, vì xét đến cùng là tìm thấy trong mọi động lực một yếu tố trung tâm quyết định nhất, năng động, có tiềm năng bền vững nhất… đó là yếu tố con người được tổ chức và đoàn kết lại. Tư tưởng này một lần nữa được khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng.

Ngày nay, muốn phát huy mạnh mẽ hơn nữa sức mạnh của Nhân dân để phát triển đất nước cần phải dựa vào sức bật của động lực đoàn kết dân tộc, vượt qua những lực cản và xử lý tốt những vấn đề đang đặt ra. Trước mắt nên quan tâm một số vấn đề sau đây:

Một là, cần củng cố và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm nòng cốt chính trị trong khối đại đoàn kết toàn dân. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, Mặt trận Tổ quốc muốn làm tròn trách nhiệm nặng nề đó, cần phải được đổi mới từ nhận thức đến hành động, từ chức năng nhiệm vụ đến bộ máy tổ chức, phương thức hoạt động đến đội ngũ nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật.

Để đáp ứng yêu cầu ấy, chức năng cơ bản của Mặt trận Tổ quốc không chỉ còn là tập hợp đoàn kết toàn dân, mà cần bổ sung chức năng mới là góp phần đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ chính trị. Chức năng mới đòi hỏi một bộ máy tổ chức và đội ngũ nhân lực sao cho thông suốt trong hệ thống từ Trung ương đến địa phương để vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa bảo đảm tính tự chủ, tính thống nhất trong hệ thống Mặt trận.

Nguyên tắc và phương thức hoạt động truyền thống của Mặt trận Tổ quốc là hiệp thương dân chủ phối hợp và thống nhất hành động cần được duy trì và thực hiện tốt hơn và cần bổ sung phương thức hoạt động mới là giám sát xã hội và phản biện xã hội.

Đổi mới nhận thức về tính chất của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ mở đường tháo gỡ những khó khăn, xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu chức năng của tổ chức này. Mặt trận là tổ chức liên minh, liên hiệp tự nguyện của nhiều tổ chức hợp lại nhưng vẫn giữ vị trí độc lập của tổ chức mình.

Đội ngũ nhân lực cho Mặt trận Tổ quốc cần được cấu trúc thành bộ phận chuyên trách tinh gọn làm bộ máy tham mưu tổng hợp để tổ chức các hoạt động của Mặt trận và bộ phận bán chuyên trách rộng lớn tiêu biểu cho tiếng nói của Mặt trận. Hai đội ngũ này cần được quan tâm xây dựng vững mạnh và không ngừng đổi mới. Cần quan tâm xây dựng đội ngũ bán chuyên trách nhiều hơn nữa: tạo nguồn có chất lượng thiết thực, xây dựng cơ chế phát huy vai trò các ủy viên Ủy ban Mặt trận các cấp, nhất là xây dựng cá nhân tiêu biểu làm ngọn cờ tập hợp Nhân dân. Có như vậy, mới bảo đảm cho thế và lực của Mặt trận đáp ứng với chức năng mới.

Hai là, phát huy quyền dân chủ của người dân là cách tích cực nhất động viên mạnh mẽ người dân tham gia công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Nhân dân khát khao đòi hỏi, chờ đợi và cũng là một trọng điểm chống phá của thế lực chống đối. Ngày nay, yêu cầu về dân chủ của Nhân dân đã có nhiều đổi mới so với trước khi đổi mới cách đây 38 năm. Cơ cấu dân cư thay đổi, trình độ dân trí nâng cao, nhu cầu và lợi ích ngày càng đa dạng… làm cho nhu cầu về dân chủ trong Nhân dân cùng biến đổi theo.

Nhân dân đòi hỏi được biết nhiều thông tin hơn nên cần có cơ chế giám sát và về công khai, minh bạch; Nhân dân đòi hỏi được bàn bạc nhiều hơn nên cần có cơ chế phản biện và góp ý về chủ trương, chính sách từ khâu soạn thảo đến khâu thực hiện (như Đại hội X của Đảng), nên cần có cơ chế về tự do ngôn luận. Nhân dân đòi hỏi được kiểm tra và thụ hưởng những thành quả chính đáng và hợp pháp một cách công bằng, công khai, công tâm.

Nhà nước ban hành không ít luật pháp, chính sách nhưng giữa các chính sách còn trùng lặp, đối chọi nhau, ảnh hưởng đến Nhân dân. Nay cần tăng cường hiệp thương và phối hợp giữa các ngành, các cấp để dân được hưởng thành quả của hiệp thương dân chủ, tránh tình trạng phân tán, biệt lập trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách, pháp luật.

Những đổi mới về mở rộng dân chủ trên đây là đòi hỏi của Nhân dân tuy được phản ánh từ lâu, nhưng những tiến bộ đạt được chưa đủ đáp ứng đòi hỏi của dân. Chưa có sự thông suốt đầy đủ cần thiết trong nhận thức về dân chủ trong cơ chế vận hành tổng thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý” mà Đại hội VI của Đảng đã đề ra, “coi đó là cơ chế chung quản lý toàn bộ xã hội”2.

Có thể nói đoàn kết và dân chủ là hai vế của động lực chủ yếu khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tiềm năng hùng hậu của Nhân dân, thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Ở đâu và khi nào thực hiện tốt dân chủ, thì Nhân dân đoàn kết tốt, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt, đất nước phát triển, Nhân dân sống ấm no, hạnh phúc, bình yên và họ sẽ ra sức đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước.

Chú thích:

1,2.  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 23.

 


tapchimattran.vn