Truy cập nội dung luôn

Trăm năm bén rễ, danh trà vươn xa - Kỳ 1: Di sản sống và hành trình định danh

2025-09-26 19:29:00.0

Không đơn thuần là một loại cây trồng của ngành nông nghiệp, chè là ký ức, là văn hóa và trở thành dấu ấn bản sắc của tỉnh Thái Nguyên. Từ những gốc chè cổ hàng trăm năm tuổi đến thương hiệu Tân Cương lừng danh, từ bàn tay sao chè thủ công đến quy trình sản xuất hiện đại, ứng dụng chuyển đổi số và nghị quyết chuyên đề mang tầm quốc gia của tỉnh, hành trình một thế kỷ của “Đệ nhất danh trà” đang viết tiếp khúc ca mới mạnh mẽ, vươn xa hơn.

Ở Thái Nguyên, cây chè đã bén rễ trong ký ức và đời sống của biết bao thế hệ người nông dân. Là địa phương đứng đầu cả nước về diện tích, sản lượng và giá trị kinh tế từ chè, nơi đây còn lưu giữ cả một dòng chảy văn hóa, ký ức và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của cây trồng này. Với vai trò là “thủ phủ trà”, cây chè góp phần định hình bản sắc và vị thế của Thái Nguyên trong dòng chảy văn hóa nông nghiệp Việt Nam.

Chè tươi chỉ hái một đọt non (tôm) và lá non liền kề ngay dưới nó là nguyên liệu làm nên sản phẩm chè tôm nõn, khi pha có hương thơm đặc trưng, vị chát nhẹ ban đầu và hậu vị ngọt sâu

Sử sách ghi tên, núi rừng minh chứng

Trà Thái Nguyên không chỉ có lịch sử 100 năm mà là vài trăm năm hoặc hơn thế. Điều này được khẳng định qua các tài liệu lịch sử và bằng chứng khoa học về các quần thể cây chè cổ được phát hiện tại mảnh đất “Đệ nhất danh trà”.

Trong sách Vân đài loại ngữ (1773), Lê Quý Đôn ghi: “Xứ Thái Nguyên có vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, sắt, tre, gỗ, củi, than, công tư dùng đủ; còn có chè, sơn, vỏ gió, dâu gai và tôm cá, mối lợi dồi dào”. Đến Đại Nam nhất thống chí, bộ địa chí lớn nhất của triều Nguyễn do Quốc sử quán biên soạn dưới thời vua Tự Đức (1847-1883), cũng cho thấy chè đã là sản vật quan trọng. Tại mục “thổ sản”, quyển 20 chép về tỉnh Thái Nguyên đề cập: “Chè Nam có ở các huyện Cảm Hóa, Vũ Nhai, Đại Từ, Phú Lương, Văn Lãng, vị ngon hơn chè ở các nơi khác”. Theo nhà văn hóa trà Mông Đông Vũ, việc được chính sử nhiều lần ghi nhận cho thấy cây chè có mặt ở Thái Nguyên từ hàng trăm năm, và chính nhờ chất lượng vượt trội nên mới được ghi chép tỉ mỉ đến vậy.

Nếu sử sách là chứng cứ về nguồn gốc, thì thực tế lại cung cấp những minh chứng sống động cho lịch sử lâu đời của chè Thái Nguyên. Năm 2011, phóng viên Báo Thái Nguyên cùng Đoàn công tác huyện Đại Từ khảo sát khu vực đỉnh núi Bóng, xã Đức Lương, đã phát hiện khoảng 30 cây chè cổ thụ. Có cây cao tới 25 m, ước đoán khoảng 300 năm tuổi. Người dân địa phương cho biết họ vẫn thường hái lá chè cổ về hãm nước uống, làm cao chè và sử dụng như vị thuốc.

PGS.TS Hà Duy Trường, Giám đốc Trung tâm Đào tạo, nghiên cứu giống cây trồng và vật nuôi (Trường Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên) cùng thành viên Hội chè Đại Từ khảo sát cây chè cổ trên đỉnh núi Tam Đảo, thuộc địa phận xã La Bằng

Gần đây, Hội chè Đại Từ phối hợp với các nhà nghiên cứu Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên khảo sát khu vực đỉnh núi Tam Đảo. Sau hơn 8 giờ vượt núi, đoàn phát hiện một quần thể gần 20 cây chè cổ thụ ở độ cao trên 1.300 m (thuộc xã La Bằng), có tuổi trung bình trên 200 năm. Đáng chú ý, những cây chè cổ này mới chỉ được tìm thấy trong phạm vi khảo sát hẹp, cho thấy khả năng vẫn còn nhiều quần thể chè hàng trăm năm tuổi tồn tại trên dãy Tam Đảo chưa được phát hiện.

Cội rễ làm nên vùng chè trứ danh

Từ ghi chép trong sử sách cho đến sự hiện diện của những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi, có thể khẳng định chè đã đồng hành cùng người dân Thái Nguyên qua nhiều thế hệ. Không chỉ mang lại sinh kế, cây chè trở thành chất liệu hình thành nên một nền văn hóa đặc sắc, bền bỉ và giàu sức sống. Trải qua quá trình tích tụ, từ kinh nghiệm canh tác, bí quyết sao sấy đến cách thưởng trà, chè định vị cho Thái Nguyên một vị thế đặc biệt, vừa là trung tâm sản xuất lớn nhất cả nước, vừa là vùng đất kết tinh hoa văn hóa trà Việt Nam.

Trên nền tảng ấy, những vùng chè nổi tiếng đã hình thành và trở thành biểu tượng của Thái Nguyên. Trước hết phải nhắc tới Tân Cương - cái nôi của “đệ nhất danh trà”, nơi hội tụ khí hậu mát lành, thổ nhưỡng thích hợp, nguồn nước trong lành từ sông Công và bàn tay khéo léo của người nông dân. “Tri thức về trồng và chế biến chè Tân Cương” đã vinh dự được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Hiện nay, nơi đây vừa là vùng trồng chè chủ lực, vừa trở thành điểm đến văn hóa - du lịch, nơi du khách có thể thưởng thức vị trà đặc biệt, các món ẩm thực truyền thống và khám phá không gian văn hóa bản địa.

Cùng với Tân Cương, nhiều vùng chè khác của Thái Nguyên cũng xây dựng được thương hiệu riêng. La Bằng, nằm ở sườn Đông Tam Đảo với khí hậu mát mẻ và nguồn nước trong lành, nổi tiếng với sản phẩm trà có hương vị đậm đà. Trại Cài được biết đến nhờ kỹ thuật chế biến tinh tế, gắn với truyền thống làng nghề. Khe Cốc cũng từng bước khẳng định tên tuổi, tạo thêm sắc thái cho bức tranh chung của vùng trà trứ danh.

Mỗi vùng chè có sắc thái riêng nhưng đều chung một giá trị cốt lõi, kết tinh từ đất, con người và lịch sử. Những đồi chè xanh mướt vừa đem lại sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế, vừa là không gian văn hóa cộng đồng, nơi lưu giữ ký ức và niềm tự hào của bao thế hệ.

Dòng chảy văn hóa bền bỉ cùng thời gian

Theo thời gian, văn hóa trà Thái Nguyên đã vượt khỏi phạm vi sản phẩm nông nghiệp, trở thành giá trị tinh thần, đi vào thơ ca, nhạc họa và khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều thế hệ nghệ sĩ. Tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức thành công 3 kỳ Festival trà cùng nhiều lễ hội thường niên ở các địa phương như: Lễ hội Hương sắc trà xuân Tân Cương, Lễ hội Trà Đại Từ, Lễ hội vinh danh làng nghề chè Phú Lương… nhằm quảng bá, tôn vinh cây chè và người trồng chè. Nhờ đó, chè Thái Nguyên không chỉ hiện diện trên nương đồi hay trong chén trà, mà còn được khẳng định như một biểu tượng văn hóa giàu sức sống.

Lễ hội “Hương sắc trà xuân - vùng chè đặc sản Tân Cương” được tổ hằng năm, nhằm tôn vinh nghề trồng và chế biến chè truyền thống, quảng bá thương hiệu chè Tân Cương và thúc đẩy du lịch địa phương. (Trong ảnh: Các thí sinh tham gia phần thi sao chè theo phương pháp truyền thống).

Văn hóa trà Thái Nguyên vừa gần gũi, dân dã, vừa toát lên sự tinh tế trong từng nghi thức. Ở nhiều làng quê, chén trà hiện diện trong nếp nhà, gắn với phong tục hiếu khách và tình làng nghĩa xóm. Người dân coi trà như sợi dây kết nối cộng đồng, biểu đạt cốt cách mộc mạc, chân thành. Trong đời sống thường nhật, bát nước chè xanh có mặt trên bàn tiếp khách, trong sinh hoạt gia đình, ở chợ phiên hay ngày hội. Với mỗi người, chén trà mang trong mình cả hương vị đặc trưng lẫn giá trị sẻ chia, gắn kết và tinh thần sống chan hòa, cởi mở. Sắc xanh nương chè, vị chát ngọt trong chén trà được khắc họa như hình ảnh tiêu biểu của đất và người Thái Nguyên. Những đồi chè trùng điệp vừa là cảnh quan nông nghiệp, vừa hiện diện như một biểu tượng nghệ thuật, góp phần khẳng định thương hiệu vùng đất. Trà Thái Nguyên vì thế lan tỏa cả trong giá trị vật chất lẫn chiều sâu tinh thần, được bồi đắp qua bao thế hệ.

Có thể khẳng định, sự hòa quyện giữa nền tảng lịch sử và thực tiễn đời sống đã tạo nên diện mạo độc đáo của văn hóa trà Thái Nguyên. Hồn cốt ấy trở thành bản sắc riêng, niềm tự hào để người dân trân trọng, gìn giữ và lan tỏa. Trong nhịp sống hiện đại, khi nhiều giá trị văn hóa đứng trước nguy cơ mai một, văn hóa trà Thái Nguyên vẫn khẳng định sức sống bền bỉ, là điểm tựa tinh thần và làm giàu thêm kho tàng văn hóa dân tộc.

(Còn nữa)

* Tác phẩm dự thi Cuộc thi viết "Trăm năm đệ nhất danh trà"

CTV Hồng Tâm
thainguyen.gov.vn

Thống kê truy cập

Đang truy cập: 1

Tổng truy cập: 1211694