Truy cập nội dung luôn

Khẳng định vị thế “đệ nhất danh trà” trong kỷ nguyên mới - Bài 2: Sẵn sàng bứt phát trong kỷ nguyên mới

2025-08-13 14:00:00.0

Ngày 3/2/2025, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU (Nghị quyết số 11) về phát triển ngành chè giai đoạn 2025-2030. Nghị quyết thể hiện quyết tâm chính trị của tỉnh nhằm đưa ngành chè trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và hiện thực hóa khát vọng vươn ra thị trường quốc tế như một thương hiệu mạnh của quốc gia.

>>>Khẳng định vị thế “đệ nhất danh trà” trong kỷ nguyên mới - Bài 1: Khát vọng một vùng chè

Tự động hóa quy trình đóng gói sản phẩm

Mở đường ra biển lớn

Với mục tiêu đạt giá trị kinh tế 25.000 tỷ đồng (tương đương 1 tỷ USD) vào năm 2030, Nghị quyết 11 đề ra lộ trình mở rộng diện tích chè lên 24.500 ha, sản lượng 300.000 tấn búp tươi, 70% diện tích đạt chuẩn VietGAP hoặc hữu cơ. So với các chính sách trước, như Nghị quyết số 10-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về việc phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2019 - 2025 tập trung vào mở rộng diện tích, hay Đề án phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực 2021 - 2025 phấn đấu diện tích chè đến 2025 đạt 23.500 ha, sản lượng chè búp tươi đạt 273.000 tấn, Nghị quyết số 11 ưu tiên giá trị gia tăng, chuyển đổi số và xây dựng thương hiệu quốc gia. Từ đây cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của tỉnh trong việc tạo ra sự thay đổi toàn diện, hướng tới một ngành chè bền vững, đóng góp cho phát triển kinh tế của địa phương. 

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thái Nguyên, giá trị ngành chè của tỉnh năm 2024 đạt 13.800 tỷ đồng - đây là con số khả quan, tuy nhiên, giá trị xuất khẩu chè mới chỉ đạt 1.600 USD/tấn, thấp hơn 33% so với trung bình thế giới (xấp xỉ 2.400 USD/tấn, theo số liệu thị trường trà quốc tế năm 2024). Nhằm tạo sự bứt phá, Nghị quyết 11 đề ra các giải pháp cụ thể: Tái cơ cấu giống chè, ưu tiên giống trung du bản địa; đầu tư dây chuyền chế biến hiện đại, như máy phân tích chất lượng búp chè và hệ thống sấy khô tự động; xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng blockchain và thúc đẩy xúc tiến thương mại quốc tế.

Một điểm nhấn nổi bật trong Nghị quyết số 11 là cam kết đến năm 2030 đưa 100% cơ sở sản xuất chè vào nền tảng số, phù hợp với Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tiêu biểu như việc ứng dụng công nghệ IoT (Internet vạn vật - là một mạng lưới các thiết bị được kết nối với internet, cho phép thu thập và trao đổi dữ liệu với nhau mà không cần sự can thiệp của con người), để giám sát độ ẩm đất, hay xây dựng sàn thương mại điện tử chuyên biệt cho chè nhằm quảng bá thương hiệu, mở rộng kênh tiêu thụ và tăng doanh thu cho các đơn vị sản xuất chè. Tỉnh cũng khuyến khích phát triển các sản phẩm chè cao cấp, như chè đinh thượng hạng, với giá trị kinh tế gấp 7-10 lần chè thông thường, từng bước định vị thương hiệu chè Thái Nguyên ở phân khúc cao cấp. Việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, hội chợ quốc tế sẽ là cơ hội để quảng bá thương hiệu chè Thái Nguyên đến các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU và Mỹ. Nhiều chuyên gia đánh giá Nghị quyết 11 là chiến lược toàn diện, tạo đòn bẩy, không chỉ thúc đẩy kinh tế mà còn định vị thương hiệu chè Thái Nguyên trên thị trường quốc tế.

Sản phẩm trà được chú trọng về mẫu mã

Ngay sau khi ban hành Nghị quyết số 11, các hội nghị phổ biến, triển khai đã được tiến hành, thổi “làn gió mới” trong toàn tỉnh, nhận được sự đồng thuận và hưởng ứng nhiệt tình từ người dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp. Khi được hỏi về Nghị quyết 11, một lao động nữ đang làm việc tại Hợp tác xã (HTX) Chè La Bằng, phấn khởi cho biết: “Tôi gắn bó với cây chè hơn 30 năm, từ thời chỉ sao chè bằng lò thủ công đến nay khi các công đoạn dần được áp dụng công nghệ số. Nhờ sự quan tâm của chính quyền tỉnh, với việc ban hành Nghị quyết số 11 về phát triển cây chè tại Thái Nguyên, tôi rất lạc quan và tin rằng chè Thái Nguyên sẽ sớm vươn xa, mang lại đời sống tốt hơn cho người dân chúng tôi”. Chị khoe, thu nhập hàng tháng của mình là 10 triệu đồng, chưa kể tiền thưởng - đây là mức khá cao so với thu nhập trung bình của người dân ở vùng nông thôn. Với mức thu nhập này chị hoàn toàn yên tâm gắn bó với công việc hiện tại.

Phát huy tinh thần chủ động, về phía các doanh nghiệp, HTX cũng đẩy mạnh cải tiến phương thức sản xuất, mạnh dạn thay đổi tư duy trong hoạt động kinh doanh, thích ứng với công cuộc chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Như HTX Chè La Bằng, HTX Chè Hảo Đạt, HTX Trà an toàn Phú Đô đã đầu tư vào dây chuyền chế biến hiện đại, ứng dụng các phần mềm truy xuất nguồn gốc, tham gia hệ thống bán hàng online, tổ chức các phiên livestream và mã hóa QR sản phẩm. Bên cạnh đó, nhiều hộ dân đã bắt đầu ứng dụng công nghệ cao, từng bước “số hóa quy trình sản xuất chè” như việc sử dụng smart phone để lập nhật ký chăm sóc chè, dùng camera AI để theo dõi sâu bệnh, hay huy động chatbot AI để hỗ trợ giải đáp các thắc mắc của khách hàng,…

Trong số các hoạt động nhằm đưa Nghị quyết số 11 đi vào cuộc sống, tôi rất tâm đắc với việc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch mở lớp tập huấn về văn hóa trà, có sự tham gia của các nghệ nhân, chuyên gia hàng đầu. Tại đây người học được nâng cao kiến thức, kỹ năng về văn hóa trà, cách giới thiệu sản phẩm chè đến du khách trong nước và quốc tế, đồng thời xây dựng ý thức về việc chủ động phát huy tiềm năng, lợi thế về tự nhiên, bản sắc văn hóa dân tộc của tỉnh gắn với cây chè. Thống kê sơ bộ cho thấy đã có khoảng 2.500 - 3.000 người tham gia, từ đây đã tạo sự chuyển biến tích cực trong hoạt động kinh doanh sản xuất chè. Tiếp cận và khai thác giá trị của chè ở góc độ văn hóa, theo tôi là hướng đi đúng đắn, tạo ra giá trị lâu bền cho địa phương. 

Trà nương giới thiệu các bước pha trà

Những rào cản cần vượt qua

Mặc dù có nhiều tiềm năng, triển vọng, ngành chè Thái Nguyên vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn: Thứ nhất, bộ nhận diện thương hiệu cho các vùng chè như Tân Cương, La Bằng, hay Trại Cài,… chưa rõ nét. Khảo sát cho thấy nhiều người tiêu dùng trong nước chưa phân biệt rõ sự khác biệt giữa các dòng chè xuất xứ Thái Nguyên, dẫn đến nhầm lẫn và làm giảm giá trị của từng sản phẩm. Thực tế này đặt ra yêu cầu địa phương cần có các chiến lược định vị riêng cho từng tiểu thương hiệu, làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt về chất lượng, hương vị, quy trình sản xuất...

Thứ hai, dù có lợi thế về tên tuổi lâu năm trên thị trường nội địa, song chè Thái Nguyên chưa tạo được dấu ấn nổi bật trên thị trường quốc tế do các chiến lược marketing còn hạn chế, chưa được đầu tư bài bản và đồng bộ. Thiết nghĩ tỉnh nên học hỏi cách quảng bá thương hiệu từ các tên tuổi lớn của thế giới như Long Tỉnh (Trung Quốc, dẫn đầu phân khúc trà xanh cao cấp toàn cầu), Darjeeling (Ấn Độ, một trong những thương hiệu trà đắt nhất thế giới), Matcha của Nhật Bản (chiếm hơn 50% trong số 8.798 tấn trà xanh xuất khẩu năm 2024 của Nhật Bản).Trong khi Long Tỉnh và Darjeeling được quảng bá rộng rãi qua văn hóa trà đạo, còn Matcha Nhật Bản đánh vào tâm lý tiêu dùng hiện đại nhất là trong giới trẻ để vươn ra chiếm lĩnh toàn cầu, thì chè Thái Nguyên chủ yếu mới chỉ tập trung vào thị trường trong nước và một số nước châu Á, vì thiếu những câu chuyện truyền thông thật sự tạo được dấu ấn sâu sắc để giúp lan tỏa thương hiệu. Nhìn rõ hạn chế này, sẽ giúp địa phương có phương hướng khắc phục.

Thứ ba, việc kết nối hoạt động sản xuất chè với du lịch trải nghiệm trên địa bàn tỉnh còn hạn chế. Tính đến năm 2024, Thái Nguyên mới chỉ có khoảng 5 - 6 điểm du lịch cộng đồng gắn với chè, chủ yếu tại Tân Cương và Đại Từ, như vậy là quá ít so với tiềm năng thực tế. Vì chưa được chú trọng đầu tư nên cơ sở hạ tầng du lịch tại một số điểm đến còn khá sơ sài, chưa đáp ứng được nhu cầu của các đoàn khách trong nước và quốc tế, nhất là với những đoàn khách có nhu cầu lưu trú dài ngày, chưa tạo được sự hấp dẫn khiến du khách muốn quay trở lại. Bởi vậy nếu muốn phát huy tiềm năng du lịch trà, Thái Nguyên cần đầu tư nhiều hơn vào các điểm du lịch, tạo sự đồng bộ cả về cảnh quan môi trường, hạ tầng, chất lượng phục vụ, đa dạng các sản phẩm dịch vụ, thí dụ có thể tổ chức tour trải nghiệm “một ngày làm nông dân”, cho đến những dịch vụ nghỉ dưỡng cao cấp hơn tại các vùng chè. Muốn làm được điều này, vấn đề chuẩn bị nguồn nhân lực được đào tạo bài bản cũng cần được tính đến.

Cuối cùng, từ thực tế thăm quan khảo sát trực tiếp tại Thái Nguyên, cảm quan của tôi đó là các sản phẩm chế biến từ chè còn thiếu tính đa dạng, chủ yếu là chè khô đóng gói, bánh và kẹo trà xanh,.. trong khi các sản phẩm như mỹ phẩm, đồ uống đóng chai hay thực phẩm chức năng giàu catechin (chất chống oxy hóa mạnh) từ chè xanh vẫn chưa được chú trọng đầu tư phát triển, giúp mở rộng thị trường. Cuối năm 2024, có một sự kiện khá ấn tượng do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên phối hợp với Hiệp hội Du lịch Thái Nguyên tổ chức là Liên hoan ẩm thực mang chủ đề “Trải nghiệm xứ Trà, đậm đà bản sắc”, tại đây đã trao chứng nhận cho hơn 150 món ăn đặc sắc chế biến nguyên liệu từ cây chè. Đây là hướng đi mới mẻ, triển vọng, cần được phát huy, tạo sự đa dạng cho các sản phầm từ chè, kích cầu du lịch, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. 

Chính sách của tỉnh đã mở đường, tạo hành lang thông thoáng. Quyết tâm của các cấp chính quyền và người dân cũng đã được khẳng định. Đây là cơ sở vững chắc để Thái Nguyên tạo được sự bứt phá trong kỷ nguyên mới từ chính cây chè bản địa, tự tin khẳng định vị thế “đệ nhất danh trà” trên bản đồ nông sản Việt Nam và không ngừng vươn ra thế giới.

CTV Phong Điệp (Báo Nhân Dân)
thainguyen.gov.vn

Thống kê truy cập

Đang truy cập: 1

Tổng truy cập: 1195896