Kỳ vọng hành trình phát triển bền vững, nhân văn, bao trùm
Sun Dec 07 08:40:00 GMT+07:00 2025
Hợp nhất để mạnh hơn
Cử tri Vi Thị Mến - xã Quế Phong, Nghệ An chia sẻ: gom lại được, rõ một mối, thì dân mừng lắm. Chia sẻ của cử tri cũng giống như thực trạng được nhiều đại biểu Quốc hội chỉ ra tại phiên thảo luận sáng 5/12: 3 chương trình nhưng cùng địa bàn, đối tượng, cùng loại công trình… dẫn đến trùng lặp, thậm chí phân tán trách nhiệm. Việc hợp nhất được kỳ vọng giúp thống nhất quản lý, giảm tầng nấc, thủ tục, tăng hiệu quả đầu tư và bảo đảm nguồn lực đi đúng trọng tâm. Cử tri Hwin Niê - xã Cư Prao, Đắk Lắk đồng tình với ý kiến của các đại biểu cho rằng hợp nhất không phải là hòa tan. Vì vậy, đề xuất giữ một hợp phần riêng dành cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi - với cơ chế, mục tiêu đặc thù - nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ. Cử tri mong rằng “cái khó của người khó” không bị mất dấu khi đặt vào một chương trình lớn.
Cử tri mong muốn những chính sách đặc thù tiếp tục được giữ rõ trong Chương trình mới. Bà con vùng cao có cách làm ăn, điều kiện học hành, chăm sóc y tế và tiếp cận dịch vụ cơ bản rất khác so với miền xuôi. Vì vậy, phần thiết kế riêng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ là một yêu cầu kỹ thuật, mà là sự quan tâm nhân văn để chương trình thật sự chạm tới đúng những nhu cầu thiết yếu của người dân, ông A Lệnh, xã Mèo Vạc, Tuyên Quang chia sẻ. Ông kỳ vọng, khi chương trình được triển khai hiệu quả, hạ tầng được cải thiện, sinh kế được hỗ trợ bền vững và trẻ em có cơ hội học hành tốt hơn, đời sống đồng bào vùng cao sẽ từng bước nâng lên, đúng với tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau”.
Phân chia tỷ lệ đối ứng phù hợp
Nếu hợp nhất là bước đi chiến lược, nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri phấn khởi thì cơ chế phân bổ nguồn lực lại là điều khiến nhiều cử tri băn khoăn nhất.
Theo dõi thông tin về phiên họp của Quốc hội, cử tri Nông Văn Ngoan - một xã vùng cao của tỉnh Cao Bằng không khỏi băn khoăn. Trung ương dự kiến bố trí khoảng 20% tổng vốn chương trình, địa phương phải đảm nhận 80%, với các tỉnh nghèo, đây là gánh nặng vượt khả năng. Nếu không có cơ chế phù hợp, nhiều hạng mục dân cần nhất có nguy cơ không làm được chỉ vì không đủ vốn đối ứng.

Toàn cảnh phiên thảo luận về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035. Ảnh: Hồ Long
Từ thực tiễn triển khai các chương trình trước đây, nhiều cử tri cho rằng việc Trung ương - địa phương cùng chia sẻ trách nhiệm đầu tư là hợp lý, nhưng tỷ lệ cần phải phản ánh đúng mức độ khó khăn của từng vùng. Vì vậy, đề xuất được nhấn mạnh tại các cuộc TXCT và cũng trùng với quan điểm nhiều đại biểu Quốc hội là cần điều chỉnh tỉ lệ linh hoạt theo vùng. Theo đó, đối với vùng đặc biệt khó khăn - nơi thu ngân sách hầu như không đủ chi thường xuyên - Trung ương cần gánh phần lớn, khoảng 70%, để bảo đảm các dự án thiết yếu vẫn có thể triển khai. Với các vùng khó khăn hơn mức trung bình, tỉ lệ đối ứng 50/50 được xem là khả thi. Còn những địa bàn có điều kiện kinh tế tốt hơn có thể nhận mức hỗ trợ thấp hơn, khoảng 30% từ Trung ương. Cách tiếp cận này phù hợp tinh thần “ưu tiên mạnh nhất cho nơi khó khăn nhất”, quan điểm xuyên suốt tại phiên thảo luận về Chương trình.
Mở rộng cơ chế thay thế vốn đối ứng
Song song với đó, cử tri cũng kiến nghị cần mở rộng cơ chế thay thế vốn đối ứng để không địa phương nghèo nào phải đứng ngoài chính sách chỉ vì không đủ ngân sách. Theo đó, thay cho việc bắt buộc “bỏ tiền túi”, địa phương có thể sử dụng các nguồn hợp pháp như quỹ đất, nguồn xã hội hóa từ doanh nghiệp, các khoản vay ưu đãi hoặc tái đầu tư từ lợi ích rừng và du lịch cộng đồng. Đây là những nguồn lực có thật, phù hợp điều kiện của nhiều tỉnh miền núi và có thể tạo ra sự linh hoạt cần thiết để chính sách đi vào cuộc sống. Như nhiều cử tri chia sẻ, nếu cơ chế không tính đến sự chênh lệch vùng miền, thì chương trình dù có đúng, có hay đến đâu, những nơi nghèo nhất - vốn cần được hỗ trợ nhất - lại dễ bị bỏ lại phía sau.
Một băn khoăn khác nhiều cử tri nêu cũng trùng với nhận định của các đại biểu tại nghị trường: nếu áp dụng một tỷ lệ “cào bằng” cho mọi địa phương, thì chính sách dù tốt đến mấy cũng khó triển khai đồng đều. Nghịch lý có thể xảy ra khi những nơi nghèo nhất - lẽ ra phải được hỗ trợ nhiều nhất - lại gặp rào cản lớn nhất trong việc tiếp cận nguồn lực, vô tình làm giảm đi ý nghĩa nhân văn của cả chương trình. Cử tri vì thế đề nghị phân bổ theo mức độ khó khăn thực tế. Đó là tiếng nói từ trải nghiệm sống của những người đang trực tiếp chịu thiệt thòi nếu cơ chế không được thiết kế sát thực tế.
Chính sách nào cũng hướng đến người dân, nhưng với những vùng còn bộn bề thiếu thốn, điều cử tri mong đợi không chỉ là sự đúng đắn về chủ trương mà còn là tính khả thi của nguồn lực và sự thấu hiểu đặc thù từng vùng. Hợp nhất 3 chương trình là một bước tiến lớn, nhưng để bước tiến ấy chạm đến từng thôn bản, từng mái nhà lưng chừng núi, Quốc hội và Chính phủ tiếp tục lắng nghe đầy đủ tiếng nói của cử tri - những người hiểu rõ nhất đâu là nhu cầu cấp thiết và đâu là giải pháp hợp lý cho chính địa phương mình. Đó cũng là kỳ vọng chung của hàng triệu người dân vùng khó: chương trình mới không chỉ đổi mới về cơ chế, mà thật sự mở ra một hành trình phát triển bền vững, nhân văn và bao trùm - để không một ai bị bỏ lại phía sau.
daibieunhandan.vn







